Được sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, ngay từ nhỏ, ông đã được dạy nhạc một cách bài bản; và sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc khí, nhưng hay nhất là đàn cò, tiêu và sáo.
Đồng thời, ông còn am hiểu Nho học, Tây học và giỏi cả võ thuật.
Năm 1910, ông làm thầy giáo, dạy vỡ lòng cho trẻ em trong vùng.
Năm 1927, ông viết vở cải lương “Giọt lệ chung tình” trên cơ sở quyển tiểu thuyết “Giọt máu chung tình” của nhà văn Tân Dân Tử (Nguyễn Hữu Ngỡi). Đây là vở diễn chủ lực của gánh cải lương “Đồng Nữ ban” do cô Trần Ngọc Diện (Ba Diện) sáng lập nhằm thông qua sân khấu tuyên truyền cách mạng và gây quỹ tài chính cho hoạt động của Chi hội Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên xã Vĩnh Kim.
Về nội dung, vở diễn xoay quanh câu chuyện về Võ Đông Sơ cùng người bạn là Triệu Dõng tụ tập nghĩa quân, mưu đồ chống quân xâm lược. Bạch Thu Hà là người yêu của Võ Đông Sơ bị anh là Bạch Xuân Phương ép gả cho một tên công tử bột đã kiên quyết chống cự lại anh để giữ lòng son sắt với người yêu. Sau đó, Bạch Thu Hà lại bị tên tướng cướp Hoàng Nhất Lang đe dọa, cưỡng ép, nhưng nàng vẫn quyết bảo vệ tiết trinh, chờ đợi Võ Đông Sơ đến kỳ cùng. Đây là vở tuồng dã sử mang tính giáo dục rất cao, đề cao tinh thần chính nghĩa của Võ Đông Sơ và lòng trung trinh tiết liệt của Bạch Thu Hà.
Về nghệ thuật, vở cải lương này được viết theo lối văn biền ngẫu, có đầy đủ các bản nhạc theo các điệu, các hơi Bắc, Quảng, Hạ, Xuân, Ai đảo, Tứ đại oán, Hành vân, Văn Thiên Tường. Đặc biệt, lần đầu tiên, ông đã sáng tạo ra nhiều bài bản mới, như:
- “Yến tước tranh ngôn” (Chim én và chim sẻ tranh lời) và “Đăng lâu thưởng nguyệt” (Lên lầu ngắm trăng) theo điệu Bắc vui tươi.
- “Thất trỉ bi hùng” (Chim trỉ mái mất, chim trỉ trống buồn) theo điệu Ai buồn thảm.
- “Phong xuy trịch liễu” (Cơn gió làm nghiêng cây liễu) theo hơi Xuân nữ nhưng nhịp dồn dập như bài “Nam tẩu” trong Hát Bội. Bản này được thu đĩa ở Pháp.
- “Lục y phổ niệm” và “Bạch hạc minh bi” được phổ nhạc theo bài kinh “Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh” của đạo Phật.
Khoảng giữa năm 1928, lần đầu tiên, gánh hát Đoàn Nữ Ban ra mắt khán giả vở “Giọt lệ chung tình”, diễn tại cầu Ba Lung, xã Vĩnh Kim, được nhân dân háo hức cổ vũ. Vở diễn khá dài, diễn trong khoảng 5 giờ đồng hồ mới kết thúc, do đó phải hát đến hai đêm.
Sau thành công của vở “Giọt lệ chung tình”, ông tiếp tục dàn dựng thêm hai vở mới là “Hiệp tình quân tử” và “Bên nghĩa bên tình”. Với những vở diễn này, gánh Đồng Nữ Ban lưu diễn nhiều nơi, như Mỹ Tho, Bến Tre, Cao Lãnh, Cần Thơ, Rạch Giá, Thủ Dầu Một, Sài Gòn,... Nhận thấy tính cách “quốc sự” của gánh cải lương, chính quyền thực dân tìm mọi cách ngăn cản và ra quyết định cấm gánh hát hoạt động vào cuối năm 1928.
Sau khi gánh Đồng Nữ Ban bị tan rã, ông trở về quê vui thú điền viên, tiếp tục sáng tác những bài ca và những vở kịch nhỏ, như những bài “Túy tửu lạc ngôn” (Say rượu nói bậy), “Hồ điệp xuyên hoa” (Con bướm vờn hoa), “Non sông một chèo”,... Các vở này hầu hết mang nội dung truyền bá chữ quốc ngữ và động viên tinh thần yêu nước cho nhân dân. Ông còn lên Sài Gòn tham gia đóng phim, thường là những vai nông dân già, hoặc tham gia thổi sáo làm nhạc nền cho phim. Tiếng sáo của ông rất điêu luyện, được thu và lưu giữ tại Bảo tàng Nhân học ở Pháp. Ông còn giúp người cháu ruột là Trần Văn Khê hoàn thành luận án Tiến sĩ Văn chương bằng cách cung cấp tư liệu sống động về lịch sử của âm nhạc tài tử Nam Bộ, mà sau đó Trần Văn Khê trở thành Giáo sư, Tiến sĩ Âm nhạc học nổi tiếng thế giới. Năm 1962, ông Nguyễn Tri Khương mất tại quê nhà.