Nhạc sĩ Văn Lưu (1928-207), tên thật là Đoàn Lý Ân, người làng Thạnh Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là xã Đạo Thạnh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Gia đình của ông nổi tiếng về ca nhạc tài tử.
Từ thuở nhỏ, ông sớm bộc lộ năng khiếu âm nhạc, lại được người thân chỉ bảo nên chơi thành thạo đàn kìm, đàn tranh, đàn guitar phím lõm, đàn mandolin và đàn guitar Espagnol. Tháng 8-1945, ông tham gia cách mạng, được tuyển vào Đoàn ca kịch Khu 8 đóng tại Thiên Hộ thuộc xã Hậu Mỹ, huyện Cái Bè với vai trò nhạc công cùng với các nhạc sĩ Huê Nhu, Hoàng Việt, Nguyễn Hữu Trí. Năm 1951, ông được điều động về công tác tại Tỉnh đội Bạc Liêu thuộc Phân Liên khu miền Tây Nam bộ. Tại đây, ngoài nhiệm vụ làm nhạc công và biểu diễn, ông bắt đầu công việc sáng tác.
Sau hiệp định Genève (7-1954), ông tập kết ra Bắc, học khóa bồi dưỡng âm nhạc trung cấp đầu tiên do Bộ Văn hóa mở. Sau khi tốt nghiệp, ông về công tác tại Nhà hát múa rối Trung ương. Năm 1960-1961, ông là giảng viên Trường Bổ túc âm nhạc thuộc Bộ Văn hóa. Sau đó, ông được cử vào Ban phụ trách của Đoàn Ca múa miền Nam. Sau khi thực tập ở Nhạc viện Odessa (Liên Xô, nay thuộc nước Ukraina) về nước, năm 1971, ông công tác tại Đoàn Ca nhạc thuộc Đài Phát thanh Giải phóng.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975), ông trở về miền Nam, làm Trưởng đoàn ca nhạc thuộc Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam cơ sở II tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1980, ông trở về quê hương Tiền Giang và phụ trách Chi hội âm nhạc thuộc Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Tiền Giang.
Sau hàng chục năm gắn bó với hoạt động âm nhạc, ông đã đóng góp nhiều tác phẩm có giá trị qua các giai đoạn lịch sử của đất nước. Đó là các ca khúc Em bé bán chè (1952), Em bé chăn trâu (1953), Cô đẩy xe goòng (1959), Thanh niên ca ba (1959 - phổ thơ Huy Cận), Chiếc giường tầng (1960), Tiếng đàn quê hương (1962 - lời Trương Châu Mỹ), Chiếc trạm nổi (1963 - phổ thơ Chế Lan Viên), Bài ca người săn máy bay (1964), Nữ dân quân miền biển (1964 - phổ thơ Hồng Cẩm), Ta là chiến sĩ giải phóng quân (1965 - cùng với Triều Dâng), Phù sa về đồng (1966), Qua cầu (1971 - phổ thơ Lê Anh Xuân), Tổ khúc Bến Tre (1971 - cùng với Dương Hưng Bang), Niềm vui trọn vẹn (1971 - cùng với Huỳnh Thơ), Sài Gòn hôm nay (1975), Ngày vui toàn thắng (4-1975 - cùng với Huỳnh Thơ), Chào Côn Đảo anh hùng (1977 - phổ thơ Thanh Thủy), Rối mà không rối (1978 - phổ thơ Bảo Định Giang), Trắng trong (1978 - phổ thơ Lâm Thị Mỹ Dạ), Mừng chiến công biên giới (1978), Tình mẹ (1978), Lê văn Tám, lửa cháy lên rồi (1978), Về lại quê hương (1980), Em đi giao lương (1980 - phổ thơ Lê Hà), Mỹ Tho (1980 phổ thơ Việt Ánh), Ngọt mận hồng đào (1980), Gởi em cô gái Gò Công (1981 - phổ thơ Hoài Vũ), Ta lại về với biển thân yêu (1981), Nón trắng người thương (1983 - phổ thơ Lê Ái Siêm), Nhan sắc một dòng sông (1986 - phổ thơ Chim Trắng),…
Ngoài ra, ông còn viết khí nhạc. Những năm thực tập tại Nhạc viện Odessa, ông đã hoàn thành một số tiểu phẩm cho violon, piano, như các tác phẩm Dòng kinh Tháp Mười, Dòng sông quê tôi. Đáng kể nhất là bản sonat ba chương với tiêu đề Mảnh đất quê hương.
Đồng thời, ông còn viết nhạc nền cho nhiều vở múa rối, như Con thỏ ngọc, Bầy gấu con vui tính (1967); soạn nhạc cho vở kịch Ngôi sao lửa của Phan Vũ (1978); viết nhạc và bài hát cho vở cải lương Tiên sa Gành Ráng (1983), Anh hùng bán than (1985). Trong quá trình hoạt động cách mạng và lao động nghệ thuật, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (đợt 2 - năm 2007), Huân chương Kháng chiến chống Pháp, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất, Huy chương Vì sự nghiệp Văn học - Nghệ thuật,...