Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã lùi xa nhưng những ký ức một thời tuổi thơ vẫn còn nhớ mãi như in trong tâm trí của chú Hồ Minh Tâm. Chú Hồ Minh Tâm sinh năm 1947, hiện ngụ tại ấp Mới, xã Long Định, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống cách mạng. Ông nội là Hồ Văn Tời tham gia cách mạng ở tỉnh Bến Tre bị thực dân Pháp bắt lưu đày ra Côn Đảo, hy sinh trong tù ngày 16/4/1936. Cha ruột là ông Hồ Chí Hiếu tham gia cách mạng năm 1942, bị Pháp bắt giam ở Khám đường Mỹ Tho 9 tháng, ra tù tiếp tục hoạt động. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Pháp quay trở lại xâm lược Nam Bộ, cha của chú tiếp tục kháng chiến ở tỉnh Bạc Liêu. Sau Hiệp định Ge-ne-vơ, cha của chú ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động cách mạng, đến tháng 5/1956, bị địch bắt, giam tại nhà tù Tân Hiệp, tỉnh Đồng Nai; tháng 4/1958, ra tù tiếp tục hoạt động, bị địch bắn hy sinh ngày 01/10/1960.
Năm 1959, chú Tâm được các chú Bảy Đại, Sáu Chản giác ngộ cách mạng và dìu dắt đi theo con đường cách mạng. Chú còn nhớ rõ, tháng 3/1959, khoảng 3 giờ chiều, chứng kiến tại sân Trường sơ học ấp Khánh Tường, xã Khánh An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau có một cuộc hành quyết dã man những người mà chúng cho là Việt cộng. Lúc bấy giờ, chú Tâm là học trò tại trường, bị địch bắt đứng hai hàng ngang và cùng với nhiều người dân trong ấp phải chứng kiến một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp, vô nhân đạo, chỉ có ác thú mới hành động như thế; đó là tên Hứa, trung đội trưởng dân vệ và hàng chục tên dân vệ khác, dùng dao, mác, mã tấu chém túi bụi vào 5 chú cán bộ cách mạng bị xử theo Luật 10/59 của ngụy quyền Diệm. Các loại hung khí này sau khi chém xuống, đến lúc đưa lên thì máu theo mũi dao, mác, mã tấu chảy ngược ra phía sau và bắn vào mặt, quần áo của học sinh, khiến mọi người phải lùi lại và thét lên trong sự hoảng sợ đến tột cùng. Cuộc hành quyết vô cùng tàn bạo, phi nhân tính của tay sai Mỹ - ngụy thể hiện tội ác “trời không dung, đất không tha”, gây nên sự phẫn nộ, lòng căm thù sâu sắc của nhân dân ấp Khánh Tường. Năm 1960, được các chú chỉ dạy, chú Tâm thường xuyên la cà với bọn dân vệ, lén lấy nhiều đạn để cung cấp cho chú Bảy Đại.
Tháng 6/1960, do gia đình hoạt động cách mạng bị lộ, nên cả nhà phải vào sống bất hợp pháp ở rừng U Minh Hạ (Cà Mau). Lúc này, chú Tâm được chú Tư Tựng, cán bộ Văn phòng Xã ủy Khánh An, huyện Trần Văn Thời bố trí làm liên lạc nhận văn thư từ trạm giao liên đến Văn phòng Xã ủy. Đầu năm 1962, quê chú đã phá thế kèm kẹp, chú được kết nạp vào Đội Thiếu niên Tiền phong và làm đội trưởng Đội Thiếu niên Tiền phong ấp, trưởng đội ca múa ấp và làm liên lạc cho chú Năm Bạc, cô Ba Trung là cán bộ ấp Khánh Tường, xã Khánh An.
Tháng 02/1962, địch từ chi khu Khai Quang đến bắt mẹ và chị ba chú. Mẹ chú bị địch giam tại quận Thới Bình 3 tháng, chị ba chú bị giam ở khám Cà Mau 1 năm. Tháng 6/1962, địch đóng đồn tại ấp Khánh Tường, gia đình chú chuyển sang xã Lợi An rồi qua xã Tân Lợi, huyện Thới Bình là vùng giải phóng để sinh sống. Ngày 20/7/1964, chú được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam và tham gia du kích xã Tân Lợi, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
Ngày 16/3/1967, lực lượng du kích xã Tân Lợi (nay là xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau) đột nhập vào ấp chiến lược Bàu Móp hỗ trợ bộ phận tài chính thu đảm phụ; sau đó, trở về đóng quân ở ấp 2 cùng xã. Đến sáng hôm sau, tiểu đoàn 4, trung đoàn 22, sư đoàn 21 ngụy càn quét dọc theo sông Trèm Trẹm từ quận Thới Bình đến đồn vàm Cái Tàu để bảo vệ cho đoàn tàu tiếp tế từ Cà Mau đến quận Thới Bình. Trước tình hình đó, 21 đồng chí du kích, chú Tâm là tiểu đội trưởng, chặn đánh bọn chúng suốt từ 9 giờ đến 13 giờ, tiêu diệt và làm bị thương trên 10 tên địch. Tuy nhiên, do chênh lệch quá lớn về lực lượng và vũ khí, mọi người hết đạn và rút lui. Có 3 đồng chí hy sinh, trong đó có đồng chí Xã đội trưởng Bảy Chương. Địch đánh ép mọi người xuống sông Trèm Trẹm, dưới sông có tàu chiến đánh lên, đồng chí Tư Tòng bị thương, các đồng chí Bảy Còn, Năm Tươi, Út Nhì và chú Tâm bị địch bắt. Bọn chúng đưa lên máy bay trực thăng HU1A; sau đó, hạ cánh xuống sân bay tỉnh lỵ An Xuyên (nay là tỉnh Cà Mau). Mọi người bị đưa đến Phòng 2 An ninh quân đội trực thuộc Tiểu khu An Xuyên. Tại đây, chúng tra tấn tù binh rất dã man và tàn bạo. Không khai thác được gì, địch giam chú Tâm cùng đồng đội vào Khám đường tỉnh An Xuyên. Ngày 12/4/1968, địch đưa 60 tù binh, trong đó có chú Tâm xuống tàu, giải lên trại giam tù binh của Vùng 4 chiến thuật tại Bình Thủy, tỉnh Phong Dinh (nay là Thành phố Cần Thơ).
Trại giam này có hai khu: Khu 1 và Khu 2; mỗi khu có 18 phòng giam để giam cầm chiến sĩ và đồng bào ta cầm súng chống lại chúng từ tỉnh Long An đến tỉnh An Xuyên mà chúng gọi là tù “phiến cộng”. Tại đây, chú Tâm được chi đoàn cử làm phân đoàn trưởng. Nhiệm vụ là vận động tuyên truyền đoàn viên luôn giữ vững lập trường, khí tiết, chống lại sự mua chuộc, dụ dỗ chiêu hồi của kẻ thù, không chào cờ địch,…
Khoảng 6 giờ sáng ngày 02/8/1968, chúng tập hợp tù binh ra sân, gọi tên khoảng 400 tù binh, trong đó có chú Tâm, còng 2 người lại một, đưa lên xe GMC để trở ra sân bay Trà Nóc rồi đưa lên máy bay vận tải C130 lưu đày ra đảo Phú Quốc. Sau khoảng một giờ bay, máy bay hạ cánh xuống sân bay Dương Đông, Phú Quốc. Chú Tâm nhìn xung quanh là đồi núi trùng trùng, nhìn xuống là biển rộng mênh mông, trước mắt thấy mấy chục tên lính quân cảnh ngụy, thằng cầm dùi cui, thằng cầm roi mây hoặc roi cá đuối, đánh túi bụi lên đầu tù binh. Tên trung úy Hiển mang kính đen, tay cầm gậy mây, vừa đánh, vừa chửi: “Đây là đảo Phú Quốc cách đất liền 300 cây số, thằng nào trốn tao bắt lại chặt thành ba khúc cho cá mập ăn”. Tên này nói thế vì trong đoàn tù binh có anh Lý Văn Nam và anh Sang ở trại giam Bình Thủy trốn ra hai ngày, chúng bắt lại và đánh cho nhừ tử. Hắn cho lính quân cảnh mang ra những dụng cụ tra tấn để đe dọa, cảnh cáo, rúng ép tinh thần tù binh rồi lùa mọi người lên xe GMC chở đến phân khu giam.
Ở cửa phân khu giam, có hàng chục tên lính quân cảnh chờ sẵn tay cầm súng, dùi cui, roi đuôi cá đuối. Chờ tù nhân vừa xuống xe là bị chúng nhào tới đánh đập tàn bạo. Khi vào khu giam, chú thấy xung quanh là các dãy hàng rào kẽm gai dày đặc chen lẫn là một rừng cỏ tranh, cỏ ống, chỉ có hai cái nhà, một là nhà bếp cho tù binh nấu ăn, một là chúng gọi là nhà ăn, tù binh tự căng nhà dù để ở, không có mùng mền gì cả, tù binh phải lót cỏ tranh để ngủ, cả tuần không được tắm rửa, không có phương tiện ăn uống. Lần lượt trong tháng 8/1968, hơn 600 tù binh từ các trại giam ở Vùng 1, Vùng 2 và Vùng 3 chiến thuật cũng bị chúng đày ra nhà tù Phú Quốc, có cả tù binh người miền Bắc mà chúng gọi là tù binh Bắc Việt.
Từ đó, các anh lãnh đạo các vùng miền, các tỉnh liên hệ với nhau để kiện toàn tổ chức Đảng, Đoàn trong phân khu giam nhằm lãnh đạo tù binh giữ vững lập trường, khí tiết, đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn đen tối của địch. Theo chú biết, từ trại giam Vùng 4 ra Phú Quốc có anh Đoàn Văn Khuê ở Cái Bè và anh Nguyễn Văn Quang quê ở Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Vùng 3 có anh Thanh; Vùng 2 có anh Phương và Vùng 1 có anh Bỉnh. Các anh này là lãnh đạo Đảng ủy phân khu D4, mỗi tỉnh tổ chức chi bộ và chi đoàn, tỉnh nào có đảng viên ít thì các tỉnh kế cận ghép thành chi bộ. Anh Đoàn Văn Khuê làm Bí thư Đảng ủy phụ trách Vùng 4, anh Nguyễn Văn Quang, Đảng ủy viên, phụ trách miền Tây Nam Bộ. Nguyên tắc hoạt động của tổ chức Đảng trong tù có nét đặc thù riêng, đó là phải tuyệt đối giữ bí mật. Do tính chất bị kềm kẹp gắt gao của giám thị trại giam và những kẻ làm tay sai “mật báo” cho địch, chi bộ và chi đoàn lãnh đạo, giáo dục tù binh giữ vững lập trường, kiên định lý tưởng cách mạng, không chiêu hồi, không làm tay sai cho giám thị, đấu tranh đòi dân sinh,… Chú Tâm được chi đoàn cử làm Ủy viên thường vụ Liên chi đoàn khu miền Tây Nam Bộ.
Lúc này, chúng ra sức thực hiện âm mưu “chiêu hàng tù binh”, cho mật báo theo dõi để đánh phá tổ chức của ta trong nhà tù. Đồng thời, vô cớ thẳng tay đánh đập tù binh. Một hôm, theo phân công, chú Tâm và anh Nhì làm bếp về, do thân thể bị bẩn nên tắm và phơi quần áo. Hai tên trung sĩ Hùng và Hiệp phát hiện, bắt 2 người đánh đập dã man rồi nhốt vào chuồng cọp một tuần cho phơi nắng, giảm khẩu phần ăn và uống vốn đã rất ít ỏi. Trước ý đồ của địch, Đảng ủy phân khu hết sức nhạy bén, kịp thời tổ chức lực lượng đấu tranh, từ đó, 4 tổ xung kích chống địch được thành lập.
Khoảng 21 giờ ngày 25/12/1968, đồng loạt 4 tổ xung kích tấn công tiêu diệt một số tên ác ôn mà địch gài vào trong tù binh, các tên Phước, Cu, Mách chết tại chỗ, tên Tất bị thương nặng; riêng tổ 1, các anh miền Bắc, do đèn sáng ở sân điểm danh, nên không thực hiện. Sáng ngày 26/12/1968, hai tên trung sĩ Hùng, Hiệp cùng hàng chục quân cảnh vào khu giam đánh đập, phạt vạ tù binh suốt 5 ngày, không cho tù ăn uống, liên tục truy tìm, bắt bớ. Anh Bửu do tên chỉ điểm nhìn mặt nên chúng bắt tra tấn; sau đó, đưa ra tòa án quân sự lưu đày ra Côn Đảo. Tại nơi phân khu D4, ngày 15/01/1969, chú Tâm được chi bộ kết nạp vào Đảng Lao độngViệt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Tháng 02/1969, chúng lần lượt lọc tù binh người miền Bắc và tù binh mà chúng gọi là “hồi kết”, tù binh sĩ quan và hạ sĩ quan; tù binh người miền Nam tách ra giam giữ riêng nhằm gây chia rẽ hòng dễ bề thực hiện thủ đoạn đen tối.
Tháng 3/1969, diễn ra cuộc đàn áp đẫm máu toàn trại giam. Chúng cho giám thị và quân cảnh vào từng khu giam lấy cớ bắt tù binh chống đi tạp dịch, bắt hơn 10 người đem ra cổng phân khu giam đánh đập dã man. Với khí thế hừng hực căm thù địch, toàn thể tù binh từ Khu 3 đến Khu 6 phản ứng bằng cách vừa đập vách tôn, ca men vừa hô đả đảo vang rền làm rung chuyển một góc đảo Phú Quốc. Đối phó lại, ở mỗi khu, chúng đàn áp khác nhau; riêng phân khu D4, chúng dùng lựu đạn cay ném vào, chú Tâm và một số anh em chụp bắt ném trả trở lại, địch bắt 5 anh em bị thương, trong đó có chú Tâm bị thương ở vai trái. Ở Khu 6, anh em bắt được một tên quân cảnh, vì chúng bắn chết và làm bị thương nhiều tù binh.
Đêm 23/12/1969, chúng điểm danh phát hiện anh em ở phòng 6 đào hầm nên bắt các anh Đoàn Văn Khuê, Nguyễn Văn Quang, Lý Văn Năm, Nguyễn Văn Tỷ và 14 tù binh khác đánh đập và đưa vào biệt giam ở Khu 2. Sau đó, chúng lục xét rồi chuyển toàn bộ tù binh đến phân khu A3. Vào thời điểm này, đối với các khu tù binh trên toàn đảo Phú Quốc, chúng vừa đàn áp vừa vận động chiêu hàng, chiêu hồi tù binh. Tên Sáu Nghệ ở Cần Thơ, Đảng ủy viên phụ trách chi bộ miền Tây Nam Bộ, đầu hàng giặc, chỉ điểm giám thị bắt anh Quang, anh Bé, anh Nhì, anh Thích, anh Tấn và chú Tâm. Tên giám thị Hiệm và Thuần đã đánh đập, tra tấn mọi người rất tàn bạo, chúng đưa các anh Quang, anh Bé và anh Nhì vào biệt giam ở Khu 5; chú Tâm, anh Thích, anh Tấn, anh Năm và anh Hải vào chuồng cọp.
Tháng 5/1970, chúng chuyển phân khu A3 sang phân khu A2. Phân khu A2 là phân khu đôi gồm 18 phòng giam. Lúc này, chúng đưa khoảng 400 tù binh từ phân khu B8 đến phân khu A2 để xáo trộn tù binh; trong số này có một số trật tự làm tay sai cho địch, nhằm làm cho tù binh nghi kỵ lẫn nhau. Mục đích của chúng là đàn áp tù binh để dựng phân khu “Tân sinh hoạt” tức phân khu chiêu hồi. Tháng 11/1970, Đảng ủy giao tiêu diệt một số tên đầu sỏ, chống không để chúng lập phân khu “Tân sinh hoạt”. Hàng ngày, chúng cho bọn trật tự đánh đập tù binh, mọi người đánh trả quyết liệt. Đảng ủy chủ trương đấu tranh tuyệt thực 4 ngày đòi đưa bọn trật tự ra khỏi phân khu. Khoảng 19 giờ của ngày tuyệt thực thứ 4, chúng đưa bọn trật tự qua phân khu “Tân sinh hoạt”. Đây là thắng lợi lớn của tù binh, tiêu diệt một số tên ác ôn, buộc địch phải nhượng bộ và đây là đợt đấu tranh đầu tiên giành thắng lợi mà không đổ máu.
Tháng 4/1971, chúng chuyển chúng chú Tâm sang phân khu B2. Chú được chi bộ giao nhiệm vụ tuyên huấn là viết truyền đạt Di chúc Bác Hồ. Quân cảnh tuần tra, phát hiện anh Khôi đang đọc, nên bắt đưa vào Phòng điều hành trại giam. Tên giám thị Hiệm tra tấn anh ấy rất dã man. Sau đó, anh khai chú Tâm viết nên giám thị bắt, hai người qua biệt giam ở Khu A2. Tên Nhu, thượng sĩ Nhất, giữ chức Giám thị trưởng cho quân cảnh đánh, mỗi người 50 cây, rồi đưa vào biệt giam một tháng. Ngày 26/01/1972, chúng đưa chú Tâm qua phân khu D3, được chi bộ cử vào chi ủy đồng hương Sóc Trăng - Cà Mau do anh Hai Còn ở tỉnh Sóc Trăng làm bí thư và chú Tâm làm ban cán sự phòng 10 cùng anh Hai Sắt ở tỉnh Mỹ Tho.
Ngày 14/3/1973, chú Tâm được trao trả tù binh tại sông Thạch Hãn, tỉnh Quảng Trị. Sau đó, được đưa ra miền Bắc an dưỡng tại T72 ở Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa và được phân công làm ủy viên Ban Cán sự thanh niên kiêm Đội trưởng Thanh niên Cờ Đỏ K1 - T72. Sau 6 tháng an dưỡng, chú được cử vào tổ thư ký xét duyệt Đảng tịch cùng với các đồng chí: Trương Tấn Sang, Nguyễn Văn Lành, Trần Văn Thiện và Tô Hồng Minh làm tổ trưởng. Ngày 26/11/1973, chú được Tiểu ban xét duyệt Đảng tịch Trung ương Quyết định công nhận Đảng tịch; đồng thời được cử làm Tổ trưởng tổ Đảng thuộc chi bộ 6, Đảng bộ K4. Ngày 25/4/1974, chú được cử làm Bí thư chi bộ kiêm Đội trưởng C255P, Đoàn T72 thuộc Ban Thống nhất Trung ương về chiến trường B2 Nam Bộ, công tác tại Ban Kiểm tra Trung ương cục miền Nam, với nhiệm vụ văn thư.
Sau ngày thống nhất đất nước, chú phụ trách hành chánh Văn phòng KP.18 thuộc Ủy ban Kiểm tra Trung ương bộ phận phía nam kiêm thư ký riêng cho đồng chí Nguyễn Văn Chí, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Ban Kiểm tra Trung ương. Tháng 4/1982, chú chuyển về công tác ở Ban Tài chính quản trị Tỉnh ủy Tiền Giang; tháng 4/1994, chú nghỉ hưu. Trải qua hàng chục năm tham gia cách mạng, tuy về hưu, sức yếu, nhưng với lòng nhiệt huyết cách mạng, chú tham gia làm Phó Bí thư, Bí thư chi bộ 5 nhiệm kỳ, góp công sức cho sự phát triển địa phương, vinh dự được nhận Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng vào ngày 03/02/2024. Hiện chú là Trưởng ban Liên lạc Cựu tù kháng chiến huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang; góp phần cho công tác giáo dục lịch sử huyện nhà, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, sự cống hiến hy sinh để thế hệ trẻ hôm nay và mai sau học tập, noi theo.
Trích: Những mẩu chuyện đấu tranh của cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân Tiền Giang trong nhà tù, trại giam của địch (1930 - 1975).