Trương Định là con của quan Thủy vệ úy Trương Cầm, tỉnh Gia Định. Năm 22 tuổi (1844), Trương Định theo cha vào Nam và cưới vợ là bà Lê Thị Thưởng, con nhà hào phú ở làng Tân Phước, huyện Tân Hòa. Bà Thưởng sinh cho ông được hai người con, một trưởng nam tên Trương Quyền (dân miền Nam gọi là cậu hai), người con thứ hai là nữ chết khi còn nhỏ. Khi cha mất, Trương Định ở luôn quê vợ Tân Hòa.
Năm 1854, nhà Nguyễn có chính sách cho phép dân Nam kỳ được phép mộ dân lập đồn điền. Theo Quốc triều chính biên toát yếu (2) có ghi rõ: “Năm quý sửu (1853) chuẩn cho xứ Nam kỳ làm phép đồn điền lập ấp” và những chỉ dụ của Nguyễn Tri Phương, Trương Định đã bỏ tiền của, mộ dân nghèo khẩn đất hoang để lập đồn điền và ông được phong tước Phó quản cơ (Thời kỳ này triều Nguyễn quy định ai mộ được một đội 50 người thì bổ phụ hàm Suất đội, ai mộ đủ một cơ 500 người bổ phụ hàm Phó quản cơ).
Năm 1859, ông gom hết tài sản và đi quyên góp giúp dân miền Trung bị nạn đói. Trong năm này, Trương Định đã đưa gia quyến và mộ được 5.000 dân nghèo vùng Quảng Nam - Quảng Ngãi vào khai hoang lập ấp tại các vùng Tân Phước, Kiểng Phước, Gia Thuận (Gò Công)… Theo Nguyễn Thông: “Đầu đời vua Tự Đức, Trương Định bỏ gia tài mộ dân lập đồn điền, được bổ chức quản cơ. Trong thời gian khẩn hoang và lạc quyên cứu đói, Trương Định đã gặp và cưới bà Trần Thị Sanh là chị em con cô cậu với bà Từ Dũ (mẹ vua Tự Đức) (3)”.
Khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng, kéo quân vào đánh Bến Nghé, Gia Định tháng 02 năm 1859, Trương Định mang cơ binh đồn điền của mình gia nhập quân đội triều đình chống giặc. Thành Gia Định thất thủ, Trương Định đem quân đóng ở Thuận Kiều (Chợ Lớn), ông thường đi tiên phong trong các trận đánh, lập nhiều chiến công như phục kích giết tên đại úy Barbé của Pháp ngày 07 tháng 12 năm 1860.
Đầu năm 1861, sau trận thua ở Phú Thọ - Sài Gòn, Trương Định lui quân về Gò Công, tích trữ lương thực, rèn đúc vũ khí và chiêu mộ nghĩa quân. Trương Định đã chọn giồng Sơn Quy làm điểm đóng quân, cách trung tâm huyện lỵ Tân Hòa 2 km về phía tây bắc thuộc làng Tân Niên Đông, nay thuộc xã Long Hưng, thị xã Gò Công. Khi hay tin Trần Xuân Hòa (4) (Phủ Cậu) bị Pháp xử tử ngày 10 tháng 01 năm 1862, Trương Định mang quân từ Gò Công vây đánh đồn Gia Thạnh, ngày hôm sau đem 10 chiến thuyền đánh đồn Rạch Gầm. Từ ngày 28 tháng 02 đến ngày 06 tháng 3 năm 1862, nghĩa quân Trương Định hoạt động mạnh vùng Chợ Cũ - Mỹ Tho.
Đầu năm 1862, trận nổi bật của nghĩa quân Trương Định là trận tấn công Chợ Lớn đêm 06 tháng 4 năm 1862 thiêu hủy nhiều cơ sở trong đó có kho đạn của địch. Việc nghĩa quân dũng cảm, táo bạo tiến công một cơ sở hậu cần và kho vũ khí trên vùng kiểm soát rộng lớn của giặc làm cho nhân dân thêm tin tưởng, còn binh lính giặc thì hoang mang. Đánh giá hậu quả của trận Chợ Lớn, tác giả Schreiner đã viết: “Trong vụ này, tài vật không hư hao bao nhiêu. Nhưng nghiêm trọng ở chỗ gây hoang mang cho mọi người. Chúng ta nắm quyền lực trong một vùng rộng lớn mà bị đe dọa ngay tại nơi trung tâm (5)”. Với những chiến công liên tiếp mà nghĩa quân đã đạt được, Trương Định được thăng chức Phó Lãnh binh Gia Định.
Tháng 3 năm 1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long, vua Tự Đức hoảng sợ từ chủ chiến chuyển sang chủ hòa, cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định ký hiệp ước Nhâm Tuất ngày 05 tháng 6 năm 1862 cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) cho Pháp đổi lấy thành Vĩnh Long. Triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong chức Lãnh binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hòa và gấp rút nhận chức mới ở An Giang nhưng nhân dân Gò Công và nghĩa quân đề nghị ông ở lại để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu, Trương Định nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử ông làm chủ soái ba tỉnh miền Đông để giết giặc. Cảm sự tín nhiệm của những người yêu nước và nhân dân, ông gạt bỏ lệnh của triều đình và nhận tước vị “Bình Tây đại nguyên soái” do dân phong.
Dưới ngọn cờ “Bình Tây đại nguyên soái” nêu cao khẩu hiệu “Phan, Lâm mại quốc triều đình khí dân (6)” ông động viên nhân dân đào hào đắp lũy, bố trí trận địa, xây dựng chiến tuyến phòng giữ những nơi hiểm yếu, mặt Đông ra tận biển, mặt Tây lên đến Gò Công Tây. Hiện nay, những nơi này vẫn còn các di tích như: Chiến lũy pháo đài xã Phú Tân huyện Tân Phú Đông; lũy trại cá xã Tăng Hòa, ao Dinh xã Tân Phước và Đám lá tối trời ở xã Gia Thuận, huyện Gò Công Đông; lũy Đồng Sơn xã Đồng Sơn, huyện Gò Công Tây; lũy Dung Giang xã Bình Đông, thị xã Gò Công và vịnh đá hàn, nơi nghĩa quân Trương Định lấy đá ngăn sông cửa Tiểu… Mặt khác, Trương Định chọn những sĩ phu có tâm huyết làm tri phủ, tri huyện ở nhiều nơi thuộc ba tỉnh miền Đông, ngay cả trong vùng địch đang chiếm đóng, để vận động sức người, sức của phục vụ cho cuộc kháng chiến. Trương Định ra lời hịch rất thống thiết hô hào các tầng lớp nhân dân chiến đấu giết giặc.
Ngoài ra, Trương Định còn liên kết chặt chẽ với các phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ với các sĩ phu yêu nước như: Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho - Chợ Gạo, Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười; Nguyễn Đình Chiểu, Phan Tòng ở Bến Tre; Nguyễn Trung Trực, Phan Đạt ở Tân An; Bùi Quang Diệu, Đỗ Quang ở Cần Giuộc… Do đó, thanh thế và lực lượng của ông ngày càng lớn mạnh, khiến cho kẻ thù phải lo sợ.
Hòng quật ngã ngọn cờ hiệu triệu của Trương Định, giặc Pháp lại dùng mưu gian. Một mặt chúng thúc giục quan tỉnh Vĩnh Long và Phan Thanh Giản gửi thư xuống lệnh buộc Trương Định bãi binh, nộp khí giới thì chúng mới trả thành Vĩnh Long. Một mặt chúng bắn tin thư chiêu dụ Trương Định đầu hàng. Mặc cho bọn quan triều hèn nhát và bọn giặc Tây xảo quyệt thuyết phục, đe dọa, lập trường của ông vẫn không thay đổi. Quan điểm của ông trong các thư trả lời là “chỉ có đánh không ngừng”, “triều đình không nhìn nhận chúng ta nhưng chúng ta cứ bảo vệ đất nước chúng ta”, “đại nghĩa nhất định thắng”.
Thất bại trong âm mưu chiêu hàng, năm 1862 giặc Pháp hạ lệnh tấn công Sơn Quy - là nơi đóng tổng hành dinh - bằng một lực lượng tập trung khá lớn. Trương Định lập kế hoạch dụ địch vào chỗ đầm lầy, bưng sình, giết được nhiều tên. Tuy nhiên, để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài với giặc, ông vừa bố trí những trận phục kích trên đường tiến quân của giặc vừa cho quân rút an toàn về “Đám lá tối trời” vùng Phước Thuận (7). Từ “Đám lá tối trời”, Trương Định đã ra tuyên ngôn với danh nghĩa nhân dân Gò Công khẳng định với giặc là quyết tâm đánh đuổi chúng đến cùng dù không có vũ khí tối tân thì dùng gậy gộc để đánh giặc.
Giặc Pháp bao vây “Đám lá tối trời”, truy kích ông và nghĩa quân. Thấy được những mặt bất lợi của căn cứ địa Gò Công là đồng bằng bằng phẳng, trống trải dễ bị giặc bao vây tiêu diệt, ông rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Gò Công, chọn Lý Nhơn - Cần Giờ, một vị trí nằm giữa vùng đất phù sa có rừng dừa nước che kín giáp ranh Biên Hòa - Đồng Nai làm đại bản doanh. Để có thời gian củng cố lực lượng căn cứ mới, Trương Định cho phân tán nghĩa quân thành nhiều toán nhỏ. Tuy nhiên, việc xây dựng căn cứ mới gặp nhiều khó khăn, nhất là phải đối phó với thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp.
Sau khi chiếm Gò Công, ngày 12 tháng 3 năm 1863, Bonard (8) ra một tờ thông tri cưỡng bức quan lại người Việt phải quy thuận, khủng bố, trả thù nhân dân Gò Công với những nội dung như: xử tử hình người cầm đầu nghĩa quân, tịch thu tài sản, tổng số thuế năm 1862 được thu một lần, giao nộp toàn bộ vũ khí, cưỡng bức nhân dân lao dịch (làm đường, phá hủy đồn lũy của nghĩa quân)…
Để gây ảo tưởng hòa hoãn, hòa bình trong quần chúng nhân dân, Bonard và Palanca (9) ra Huế đề nghị triều đình nhà Nguyễn xúc tiến phê chuẩn Hiệp ước 1862 nhận lại thành Vĩnh Long, chuẩn bị sứ bộ sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông.
Để đối phó với âm mưu của giặc, Trương Định khẩn trương củng cố lực lượng, mua vũ khí, mộ thêm quân, nhiều toán nghĩa quân đi khắp nơi để vận động quần chúng. Địa bàn hoạt động từ vùng rừng núi Biên Hòa, Tây Ninh đến Sài Gòn, Đồng Tháp Mười… Những bài hịch của ông xuất hiện khắp nơi, ngay cả ở Mỹ Tho. Ông liên hệ chặt chẽ với Thiên Hộ Dương, cử người ra miền Trung mua thuốc đạn.
Thoát cuộc bố ráp truy kích của giặc ở Lý Nhơn, Trương Định trở về Đám lá tối trời, một mặt ông xây dựng lại lực lượng và cơ sở kháng chiến, một mặt ông truyền hịch đi khắp nơi lên án dã tâm xâm lược của kẻ thù và kêu gọi sĩ phu, mọi người hãy đứng lên, góp công, góp sức, hiến kế giúp ông đánh giặc, đó là Hịch Quản Định tháng 8 năm 1864. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Trương Định, một làn sóng kháng chiến lại sôi nổi ở Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Chợ Lớn, Biên Hòa… làm cho giặc Pháp càng sốt ruột và càng ra sức truy tìm để diệt ông.
Về phía giặc Pháp, chúng liên tiếp áp dụng thủ đoạn thâm độc là cho bọn mật thám, bọn phản bội ráo riết theo dõi mọi hoạt động của nghĩa quân, bằng mọi cách phải phát hiện tung tích của Trương Định.
Những mánh khóe gian ác của giặc đã có tác dụng đối với tên Việt gian Huỳnh Văn Tấn, tên chó săn khét tiếng lúc bấy giờ, từng là thuộc hạ thân tín của Trương Định. Đánh hơi được Trương Định về xã Phước Lộc (nay là ấp 3, xã Tân Phước, huyện Gò Công Đông) cùng 25 nghĩa quân đóng trong nhà của một người tâm phúc, Huỳnh Văn Tấn cho quân bao vây, đột nhập vào nhà đêm 19, rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864. Trương Định và những nghĩa quân của ông chống trả quyết liệt. Ông giết được một số tên địch nhưng bản thân bị thương nặng, biết mình không sống được và quyết không để rơi vào tay giặc, sẵn gươm trong tay, ông điểm mặt tên Tấn rồi đâm vào bụng để tự sát.
Trương Định mất đi nhưng sự nghiệp của ông vẫn được các nghĩa quân tiếp tục. Viên tham tán quân vụ của ông là Trịnh Quang Nghị di chuyển sang Giao Loan (10) hợp tác với Phan Chánh (11) chiếm giữ Giao Loan. Phan Chánh tự xưng là “Bình Tây phó soái” được nghĩa quân hai tỉnh Biên Hòa và Định Tường theo rất đông.
Con trai trưởng của Trương Định là Trương Quyền thoát được cạm bẫy của giặc, tập hợp nghĩa quân được khoảng 400 người khởi nghĩa ở vùng 18 thôn vườn trầu Hóc Môn - Bà Điểm, bị chỉ điểm dẫn giặc Pháp đến bao vây tiêu diệt nghĩa quân. Trương Quyền chuyển về vùng rừng núi Tây Ninh liên kết với phong trào khởi nghĩa của người Khơme do thủ lĩnh Pu-Côm-bô dẫn đầu chống Pháp mấy năm liền, đến năm 1870 Trương Quyền hy sinh. Còn vợ Trương Định - bà Lê Thị Thưởng - khi chồng chết, con mất, bà về quê chồng Quảng Ngãi thủ tiết thờ chồng và chăm lo hương khói cho gia tộc.
Hơn 5 năm chiến đấu tính từ ngày giặc Pháp xâm lược nước ta tháng 02 năm 1859 đến ngày Trương Định mất (20 tháng 8 năm 1864) chưa phải là dài, nhưng cuộc khởi nghĩa của ông lập nhiều chiến công vang dội trong điều kiện lực lượng so sánh quá chênh lệch giữa ta và địch. Uy danh của Trương Định ngày càng lớn và phong trào khởi nghĩa của ông ở Gò Công lan rộng ra khắp cả nước, xứng đáng là ngọn cờ đầu trong phong trào kháng Pháp ở Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX.
--------
1. Điếu Trương tướng quân văn
2. Cao Xuân Dục chủ biên - Trần Đình Phong hiệu đính
3. Lãnh binh Trương Định truyện
4. Tháng 4.1861, sau khi chiếm thành Định Tường, quân viễn chinh Pháp chia lực lượng đóng đồn ở Kỳ Hôn, Rạch Gầm và Ba Rài. Triều đình Huế cử Biện lý bộ binh Đỗ Thúc Tịnh làm Tuần phủ Định Tường, Nguyễn Túc Trưng làm Khâm phái quân vụ, bổ sung thêm các quan Trương Minh Lượng, Nguyễn Nhã, Võ Duy Dương… Họ tập hợp nghĩa quân tại Tân Thành - Mỹ Quý (nay thuộc xã Nhị Quý huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang), tích trữ lương thực khí giới, huấn luyện quân sĩ. Nhưng Đỗ Thúc Tịnh hy sinh khi trên đường nhận nhiệm vụ. Bấy giờ các nghĩa sĩ cử Cử nhân Trần Xuân Hòa làm Tri phủ thay thế, Thiên hộ Võ Duy Dương làm Chánh quản đạo, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân làm Phó quản đạo.
5. Đại Nam quốc lược sử, 1907
6. Phan là Phan Thanh Giản, Lâm là Lâm Duy Hiệp, hai vị khâm sai toàn quyền đại thần thay mặt triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất (5-6-1862) với đại diện chính phủ Pháp là Bonard và đại diện chính phủ Tây Ban Nha là Palanca tại Sài Gòn. Phan, Lâm mại quốc, nghĩa là Phan, Lâm bán nước. Khí dân, khí là bỏ đi, ném đi. Triều đình khí dân là triều đình bỏ dân ba tỉnh miền Đông.
7. Xã Tân Phước và xã Gia Thuận huyện Gò Công Đông.
8. Thiếu tướng của quân đội Pháp
9. Đại diện chính phủ Tây Ban Nha tại Sài Gòn
10. Vùng đất giữa Biên Hòa và Bình Thuận
11. Phan Chánh còn có tên Phan Cư Chánh, Phan Trung, Trần Tuấn