Định hướng xây dựng ngoại giao kinh tế trong kỷ nguyên mới được Đại hội XIII của Đảng xác định rõ, “Xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ”. Sau hơn 02 năm thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW (10/8/2022) của Ban Bí thư về công tác ngoại giao kinh tế, hoạt động ngoại giao kinh tế đã đóng góp quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam với các đối tác.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định ngoại giao kinh tế là một trong hai trụ cột then chốt (cùng với ngoại giao biển, đảo) của định hướng đối ngoại Việt Nam trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Ngoại giao kinh tế đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập quốc tế. Ngoại giao kinh tế giúp khơi dậy động lực bên trong, mở triển vọng phát triển mới, góp phần tạo bước nhảy vọt về tăng trưởng kinh tế bền vững, duy trì sự phát triển lành mạnh, ổn định của nền kinh tế toàn cầu và ứng phó với các thách thức toàn cầu mới. Ngoại giao kinh tế tập trung vào mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua các hoạt động thương mại tự do FTA đã ký, đồng thời thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Trong gần 40 hoạt động đối ngoại cấp cao (1986 - 2024), ngoại giao kinh tế đã tích cực hỗ trợ kết nối, xúc tiến, quảng bá, tháo gỡ rào cản thương mại, thúc đẩy các hướng đi mới, mở rộng thị trường cho các ngành, lĩnh vực, địa phương và doanh nghiệp.
Hoạt động ngoại giao kinh tế đã góp phần đưa tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 786,29 tỷ USD năm 2024 (tăng 15,4% so với năm 2023), trong đó xuất siêu 24,77 tỷ USD. Thu hút FDI đạt hơn 38 tỷ USD trong bối cảnh thương mại, đầu tư toàn cầu bị thu hẹp. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, công tác ngoại giao kinh tế đã được triển khai đồng bộ, toàn diện, từng bước trở thành nhiệm vụ cơ bản, trung tâm, đóng góp tích cực vào các kết quả phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Thành tựu nổi bật nhất trong công tác ngoại giao kinh tế đó là ngoại giao vắc-xin là điểm sáng nhất, đạt kết quả vượt kỳ vọng, đóng góp quan trọng vào công cuộc phòng chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe Nhân dân. Chiến dịch ngoại giao vắc-xin là chiến dịch ngoại giao quy mô và chưa có tiền lệ trong lịch sử, đóng góp vào thành công của Chiến lược vắc-xin của Chính phủ, giúp Việt Nam đi sau, về trước trong tiêm chủng vắc-xin, tạo cơ sở quan trọng và có ý nghĩa quyết định để Việt Nam chuyển sang chiến lược thích ứng an toàn, linh hoạt với dịch bệnh và phục hồi kinh tế.
Ngoại giao kinh tế đóng góp tích cực vào đẩy mạnh hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế. Tích cực vận động, thu hút các nguồn lực phục vụ các động lực tăng trưởng mới, các nguồn tài chính xanh, đầu tư phục vụ chuyển đổi năng lượng, công nghệ cao. Việt Nam ký kết Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với nhóm các nước G7 và châu Âu có nguồn đầu tư ban đầu trị giá 15,5 tỷ USD ngày 18/11/2024.Thu hút thành công các dự án đầu tư xanh và công nghệ cao như dự án nhà máy trung hòa các-bon đầu tiên trên thế giới trị giá 1,3 tỷ USD của Tập đoàn Lego, đầu tư vào Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển trị giá 220 triệu USD của Tập đoàn Samsung... Bộ Ngoại giao tích cực thúc đẩy triển khai và hỗ trợ thiết lập các khuôn khổ hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế với 17 FTA đang thực thi, tiếp tục thúc đẩy đàm phán các FTA với khối EFTA, UAE, MERCOSUR.
Để đạt được mục tiêu tăng cường sự phát triển bền vững và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cần tiếp tục thực hiện một số giải pháp đối với hoạt động ngoại giao kinh tế:
Một là, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư quốc tế đến Việt Nam. Tạo bước đột phá trong thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mới như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), năng lượng và trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo và năng lượng xanh. Bảo đảm môi trường chính trị, đầu tư, kinh doanh an toàn, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Để thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Việt Nam cần tiếp tục cải thiện hệ thống pháp luật và quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cung cấp các ưu đãi thuế như miễn thuế nhập khẩu, giảm thuế doanh thu và giảm thuế vốn điều lệ cho các doanh nghiệp FDI. Phát triển cơ sở hạ tầng như giao thông, điện và nước, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó, tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp FDI. Đảm bảo môi trường kinh doanh minh bạch và công bằng giúp tăng cường niềm tin tưởng của các nhà đầu tư. Việt Nam đã trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn cho FDI trong khu vực.
Hai là, tiếp tục đào tạo và nâng cao năng lực ngoại giao kinh tế. Phát triển kỹ năng và năng lực ngoại giao kinh tế cho các chuyên gia và nhân viên để đảm bảo họ có khả năng đối phó hiệu quả với các thách thức và cơ hội mới. Đào tạo và phát triển kỹ năng cho các nhà ngoại giao và chuyên gia kinh tế, bao gồm các kiến thức về kinh tế quốc tế, đàm phán thương mại và phân tích thị trường. Tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để mở rộng mạng lưới hợp tác và tiếp cận với các thông tin, công nghệ mới. Thường xuyên tổ chức các hội chợ, triển lãm và các sự kiện xúc tiến thương mại để giới thiệu sản phẩm và cơ hội đầu tư của Việt Nam ra thị trường quốc tế. Thành lập các viện nghiên cứu và trung tâm phân tích kinh tế để cung cấp dữ liệu và báo cáo chính xác, hỗ trợ các quyết định chiến lược trong ngoại giao kinh tế. Bên cạnh đó, xây dựng thương hiệu quốc gia, phát triển và quảng bá thương hiệu quốc gia, giúp nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, đẩy mạnh tăng cường hợp tác quốc tế. Tham gia tích cực vào các tổ chức và hiệp định kinh tế. Ngoài việc tham gia các hiệp định thương mại quốc tế và các tổ chức quốc tế, Việt Nam cần phát triển các dự án hợp tác song phương và đa phương. Xây dựng và thực hiện các dự án hợp tác cụ thể trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ. Tổ chức các hội nghị, hội thảo, triển lãm và các sự kiện giao lưu văn hóa để thúc đẩy hiểu biết và hợp tác giữa các quốc gia. Phát triển ngoại giao công chúng với việc sử dụng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội để quảng bá hình ảnh và văn hóa Việt Nam, tạo sự hiểu biết và thiện cảm với cộng đồng quốc tế. Đầu tư vào nguồn nhân lực ngoại giao như đào tạo và phát triển kỹ năng ngoại giao cho các cán bộ, tăng cường năng lực đàm phán và quản lý các mối quan hệ quốc tế.
Bốn là, tiếp tục mở rộng quan hệ thương mại. Củng cố quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với các thị trường lớn, chủ chốt và mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chú trọng hơn các thị trường tiềm năng, còn nhiều dư địa hợp tác như UAE, Trung Đông - châu Phi, thị trường Halal (thị trường Hồi giáo). Tăng cường thương mại với các quốc gia và khu vực khác nhau, đặc biệt là các nền kinh tế đang phát triển nhanh. Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới thông qua ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các quốc gia và khu vực khác nhau như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, và các nước ASEAN. Việt Nam là thành viên của WTO, APEC, và các tổ chức thương mại khác, giúp mở rộng quan hệ thương mại và tăng cường hợp tác kinh tế. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp chủ chốt như công nghiệp chế biến, dệt may và nông sản xuất để tăng cường xuất khẩu. Việt Nam đã thực hiện nhiều cải tiến trong hệ thống pháp luật và quy trình hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài.
Những giải pháp trên không chỉ nhằm giúp nâng cao năng lực ngoại giao kinh tế mà còn đóng góp vào sự thịnh vượng của quốc gia, giúp Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thúc đẩy sự phát triển bền vững và tăng cường vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Nguồn: Thông tin công tác Tuyên giáo và Dân vận số 10-2025