Tình hình kinh tế tiếp tục duy trì xu hướng tích cực, đạt được một số kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho các tháng, quý tiếp theo.
- Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: Tính đến ngày 15/7/2024, cả nước gieo cấy được 1.206,9 nghìn ha lúa mùa, bằng 99,5% cùng kỳ năm trước, trong đó: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 852,5 nghìn ha, bằng 99,3%; các địa phương phía Nam gieo cấy 354,4 nghìn ha, tương đương cùng kỳ năm trước. Riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đã xuống giống được 297,1 nghìn ha lúa thu đông, bằng 110,7% cùng kỳ năm trước, chủ yếu hủ yếu do một một số địa phương đã tăng diện tích trên nền thu hoạch sớm vụ hè thu năm 2024. Đến trung tuần tháng 7, cả nước gieo cấy được 1.902,2 nghìn ha lúa hè thu, bằng 99,6% cùng kỳ năm trước. Trong đó, các địa phương phía Bắc đạt 173,6 nghìn ha, bằng 100,6%; các địa phương phía Nam đạt 1.728,6 nghìn ha, bằng 99,5%, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.465,9 nghìn ha, băng 99,5%. Diện tích ngô, lạc, đậu các loại, rau tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 143,4 nghìn ha, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 51,1 triệu cây, tăng 3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 11.943,2 nghìn m³, tăng 7,1%. Chăn nuôi trâu, bỏ có xu hướng giảm; chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển ổn định. Sản lượng thuỷ sản ước đạt 5.225,8 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 3.760,2 nghìn tấn, tăng 2,5%; tôm đạt 699 nghìn tấn, tăng 3,9%; thuỷ sản khác 766,6 nghìn tấn, tăng 2,1%.
- Về sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 0,8%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,5% (cùng kỳ năm 2023 giảm 1,2%), ngành sản xuất và phân phối điện tăng 12,4% (cùng kỳ năm 2023 tăng 1,4%), ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,2% (cùng kỳ năm 2023 tăng 5,2%), riêng ngành khai khoáng giảm 6,2% (cùng kỳ năm 2023 giảm 2%). Một số địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao là: Lai Châu tăng 43,1%; Phú Thọ tăng 38,4%; Bắc Giang tăng 27,5%; Bình Phước tăng 17,1%; Thanh Hoá tăng 15,1%; Điện Biên tăng 8,8%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Khánh Hoà tăng 258,5%; Lai Châu tăng 66,4%; Cao Băng tăng 62,1%; Điện Biên tăng 51,8%; Sơn La tăng 35,2%; Thanh Hoá tăng 33%; Phú Thọ tăng 15,3%.
- Về thu, chỉ ngân sách nhà nước, đầu tư, doanh nghiệp: Tổng thu ngân sách nhà nước 7 tháng năm 2024 ước đạt 1.188,1 nghìn tỉ đồng, bằng 69,8% dự toán năm và tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước; tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 948,3 nghìn tỉ đồng, bằng 44,7% dự toán năm và tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước ước đạt 40,6% kế hoạch năm và tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tại Việt Nam ước đạt 12,55 tỉ USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước; đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của 7 tháng trong 5 năm qua (trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 9,98 tỉ USD, chiếm 79,5% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kình doanh bất động sản đạt 1,14 tỉ USD, chiếm 9,1%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khi đạt 481,1 triệu USD, chiếm 3,8%). Bẩy tháng năm 2024, cả nước có hơn 95,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 854,6 nghìn tỉ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 600,4 nghìn lao động, tăng 6,3% về số doanh nghiệp, tăng 2,4% về vốn đăng ký và tăng 2% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Theo khu vực kinh tế, có 919 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước; 22,4 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 4,8%; 71,9 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, tăng 6,8%.
- Về xuất, nhập khẩu hàng hoá, thương mại, du lịch, giá cả: Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá 7 tháng năm 2024 đạt 439,88 tỉ USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 15,7%; nhập khẩu tăng 18,5%; cán cân thương mại hàng hoá xuất siêu 14,08 tỉ USD. Trong 7 tháng năm 2024 có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 ti USD, chiếm 91,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 9 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỉ USD, chiếm 70,8%). Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 3.625,7 nghìn tỉ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 10,6%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,2% (cùng kỳ năm 2023 tăng 9,8%). Bình quân 7 tháng năm 2024, CPI tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,73%; thấp hơn mức CPI bình quân chung (4,12%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế và xăng dầu là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản. Tính đến ngày 24/7/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.383,17 USD/ounce, tăng 1,49% so với tháng 6/2024. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 7/2024 giảm 0,12% so với tháng trước; tăng 18,11% so với tháng 12/2023; tăng 29,39% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 7 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 24,77%. Chỉ số đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 104,61 điểm, giảm 0,24% so với tháng trước. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do dao động quanh mức 25.463 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 7 tháng năm 2024 tăng 5,85%.